Ngày Phụ nữ 20/10/2013 chúng ta thường nhắc “truyền thống phụ nữ Việt Nam” để
cổ động “Vì sự tiến bộ của phụ nữ” mà không cảm thấy mâu thuẫn chút nào. Thế
nhưng, bất cứ ai quan tâm đến quyền lợi giới đều có thể nhắc chúng ta quả thật
lạ lùng nếu, giữa “bảo tồn truyền thống” và “đấu tranh vì tiến bộ”, mục tiêu và
vấn đề cần chú ý lại hoàn toàn thống nhất với nhau; huống nữa khi cuộc vận động
tiến bộ cho phụ nữ diễn ra trong một xã hội thấm nhuần đạo lý Nho giáo tự lâu
đời.
Nghiên cứu phụ nữ Việt Nam là lãnh vực chưa có nhiều người đi sâu. Tuy
nhiên, ở Việt Nam, cũng như trong toàn thế giới chịu ảnh hưởng văn hóa Trung
Hoa, người ta rất coi trọng “truyền thống lịch sử”, trong đó có”truyền thống phụ
nữ” và “người phụ nữ truyền thống”. Từ khi mở cửa và bước đầu hội nhập thế giới
hiện đại, người ta vẫn quan tâm, hay đúng ra lại càng quan tâm hơn đến truyền
thống phụ nữ. Ngày Quốc tế Phụ nữ Tám tháng Ba được kỷ niệm cùng với Lễ Hai Bà
Trưng ngày Sáu tháng Hai âm lịch. Nhân ngày này, Hội Liên hiệp Phụ nữ trung ương
cũng như địa phương thường nhắc “truyền thống phụ nữ Việt Nam” để cổ động “Vì sự
tiến bộ của phụ nữ” mà không cảm thấy mâu thuẫn chút nào. Thế nhưng, bất cứ ai
quan tâm đến quyền lợi giới đều có thể nhắc chúng ta quả thật lạ lùng nếu, giữa
“bảo tồn truyền thống” và “đấu tranh vì tiến bộ”, mục tiêu và vấn đề cần chú ý
lại hoàn toàn thống nhất với nhau; huống nữa khi cuộc vận động tiến bộ cho phụ
nữ diễn ra trong một xã hội thấm nhuần đạo lý Nho giáo tự lâu đời.
Trong bài
viết mang tính đề dẫn cho một diễn đàn mong sẽ đón nhận đóng góp của nhiều nhà
nghiên cứu, nhiều bạn đọc nữ cũng như nam, chúng tôi xin nêu vài suy nghĩ gợi mở
để trao đổi ý kiến.
Truyền thống quý trọng và tôn vinh phụ nữ?
Có nhiều
nguyên nhân lịch sử và văn hóa giải thích vai trò quan trọng của người phụ nữ
trong xã hội Việt Nam truyền thống. Văn minh Đông Nam Á bản địa trước khi tiếp
thu ảnh hưởng văn hóa Ấn-Hoa vốn có đặc trưng là văn minh nông nghiệp độc canh
cây lúa, đặc biệt là lúa nước, giống cây đòi hỏi nhiều công sức lao động thủ
công đến nỗi thành viên nữ khó bị gạt ra ngoài lề sản xuất. Đông Nam Á cũng có
chế độ mẫu hệ phổ biến và dai dẳng; có nhiều nữ thần đến mức nữ hóa một số Phật
và Bồ tát nam, mà trường hợp điển hình nhất là Phật bà Quan âm biến thái từ Quan
(cũng đọc Quán) thế âm Bồ tát. Những yếu tố cổ đại này đến nay vẫn là thực tế xã
hội, bảo đảm tính bền vững của truyền thống.
Một thực tế lịch sử khác là tập
quán dùng đê điều ngăn lũ lụt – lâu đời như được ghi dấu trong truyền thuyết Sơn
Tinh-Thủy Tinh – có tác dụng cố kết cộng đồng, huy động đông đảo người nam tham
gia lao động công ích. Chiến tranh, kể cả chống ngoại xâm và nội chiến kéo dài
nhiều tháng, nhiều năm, có khi nhiều chục hay đến mấy trăm năm, càng đặt người
phụ nữ vào tình thế thường xuyên gánh vác việc nhà và cả việc làng, việc xóm.
“Chàng ơi phải lính thì đi, Cửa nhà đơn chiếc đã thì có tôi.”
Các truyền
thuyết thời Hùng Vương khắc sâu trong ký ức cộng đồng những giá trị cội nguồn
dân tộc Việt. Mẹ Âu Cơ sinh trăm trứng nở trăm con, nhắc nhở “đồng bào” là một
mẹ sinh ra, dẫu nòi Rồng giống Tiên là “tương khắc, bất đồng” mà vẫn dung nạp
khác biệt, hòa hợp âm dương sinh sôi con đàn cháu đống. Ngôn ngữ Việt không “duy
lý” mà đậm đà tình cảm, thậm chí là nhục cảm: cốt nhục, đồng bào, ruột thịt, rồi
lòng mẹ, đất mẹ, tổ quốc thường ví với mẹ hiền… Người phụ nữ trong truyền thuyết
thời sơ sử hồn nhiên mà quyết liệt, trong nghịch cảnh vẫn khẳng định mình như
Tiên Dong, như người vợ của hai anh em song sinh trong tích Trầu Cau, như người
đàn bà vọng phu ôm con hóa đá, như Mỵ Châu dẫu hai lần mang trọng tội vẫn được
khoan dung nhìn nhận là trắng ngần, trong suốt ngọc trai.
Lịch sử Việt Nam có
hơn nghìn năm Bắc thuộc trong hơn hai nghìn năm lịch sử biết tương đối rõ ràng.
Mở đầu trang sử chống Bắc thuộc là chiến công của hai nữ tướng: “Đô kỳ đóng cõi
Mê Linh, Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta.” Lời thề xuất quân của Hai Bà
Trưng được ghi lại trong Thiên nam ngữ lục: “Một xin rửa sạch nước thù, Hai xin
dựng lại nghiệp xưa họ Hùng, Ba kẻo oan ức lòng chồng, Bốn xin vẹn vẹn sở công
lênh này.” Nợ nước trước thù chồng, tham gia gánh vác việc chung là điều rất
bình thường trong vô số nữ binh, nữ tướng hưởng ứng khởi nghĩa Mê Linh dưới
trướng Hai Bà. Chỉ vài thế kỷ sau đó, người thiếu nữ Triệu Thị Trinh đã phải tự
khẳng định mình vượt lên trên thường tình nhi nữ: “Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh,
đạp làn sóng dữ, chém cá tràng kình ngoài biển Đông, quét sạch quân Ngô ra ngoài
bờ cõi chứ không chịu khom lưng làm tì thiếp người ta.” Lẫm liệt là như thế, một
lý tưởng đời người, oai phong là như thế, Vua Bà làm kinh sợ đối phương. Nhưng
suốt nhiều trăm năm tiếp theo, do trật tự nam trọng nữ khinh, nam ngoại nữ nội,
phụ nữ hình như không có mặt hay không còn lưu dấu trong lịch sử chiến tranh,
ngoại trừ hiếm hoi những ả Đào, những phụ nữ vô danh trong khởi nghĩa Lam Sơn,
hay trong đội quân áo vải cờ đào của Quang Trung Nguyễn Huệ. Nữ tướng Bùi Thị
Xuân, rồi vợ ba Cai Vàng, vợ ba Đề Thám, những danh xưng nhiều khi chưa lưu dấu
tên người phụ nữ nhưng đủ minh chứng truyền thống quật cường của những người đàn
bà không chỉ làm vợ và làm mẹ.
Nhưng lịch sử nào phải chỉ có chiến tranh và
khởi nghĩa. Ỷ Lan từ cô gái hái dâu trở thành nguyên phi, rồi Thái hậu; hai lần
nhiếp chính thay chồng, thay con trị nước là hai lần để lại dấu ấn tốt đẹp trong
lòng người. Được tôn xưng Phật bà Quan âm vì dân no ấm, khiến Thánh Tông không
thể lui quân mà không giành chiến thắng; kiên quyết chống tệ nạn lạm sát trâu là
sức kéo cho nông nghiệp; nhân hậu và thấu cận nhân tình khi xuất của kho chuộc
gái nhà nghèo ở đợ đem gả cho trai nghèo không tiền cưới vợ với người ta, “đổi
đời cho họ” như lời bình của sử thần Ngô Sĩ Liên. Đến nỗi thảm sát hơn bảy mươi
mạng người vì tranh chấp quyền lực mà vẫn được sử gia nho sĩ khoan dung, ấy là
bởi công lớn với đời hay bởi nhà nho thông cảm tâm hồn phụ nữ: “Ghen là thường
tình của đàn bà”? Dương Vân Nga, hoàng hậu của hai vua; Lý Chiêu Hoàng nhường
ngôi cho chồng rồi bị giáng làm công chúa vì cái “tội” oan khiên là không con
nối dõi; Trần Thị Dung, hoàng phi triều Lý và Quốc mẫu triều Trần; nàng công
chúa Trần Huyền Trân trở thành bà hoàng Chiêm quốc để đất nước thêm hai châu Ô,
Rí; Trịnh Thị Ngọc Trúc với hai đời chồng ngang trái nhưng là tác giả những công
trình nghiên cứu tâm huyết và uyên bác… Trần Thị Thái và Nguyễn Thị Lộ đóng vai
trò nào trong cuộc đời danh nhân Nguyễn Trãi? Văn thơ hay danh phận được nhiều
đời truyền tụng, nhưng hậu thế hiểu đến đâu tâm hồn phụ nữ của những Đoàn Thị
Điểm, Nguyễn Thị Hinh (mà người đời thường chỉ biết dưới danh xưng bà Huyện
Thanh Quan), Hồ Xuân Hương, Lê Ngọc Hân hay gần hơn là những bà Từ Dũ, Từ Cung
và cô Mariette Nguyễn Thị Lan được phong Nam Phương hoàng hậu?… Và bao nhiêu nữa
những phụ nữ con vua cháu chúa hay lam lũ dân thường với những số phận, tâm tư
còn chờ trang sử cũ được soi thêm quan điểm giới? Dẫu sao, chính sử Việt Nam tuy
ít nói về phụ nữ song thường lưu dấu hình ảnh đẹp; cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng
từ đầu công nguyên được trân trọng ghi chép và bình luận, tôn vinh kể cả trong
những thời Nho giáo độc tôn cứng rắn nhất.
Anh hùng, bất khuất, không chỉ
trong đấu tranh vũ trang; trung hậu, đảm đang, không chỉ trong cuộc sống gia
đình; người phụ nữ Việt Nam đã khẳng định mình trong nhiều lãnh vực và hình như
cũng được thừa nhận một cách đáng kể, khác biệt khá rõ so với láng giềng Á Đông
như Trung quốc, Triều Tiên, Nhật Bản.
“Ruộng sâu trâu nái không bằng con gái
đầu lòng”, người cha nông dân nhìn nhận. Anh trai làng bức xúc: “Trăng lên đỉnh
núi trăng tà, Em còn ở đó làm giàu cho cha?” Người vợ tự tin: “Một mai thiếp có
xa chàng, Đôi bông thiếp trả đôi vàng thiếp xin” (đôi bông là sính lễ, đôi vàng
là do “của chồng công vợ” mà sắm được). Người mẹ lo thầm thương trẻ cút côi, hay
láng giềng so đo nhận xét: “Mồ côi cha ăn cơm với cá, mồ côi mẹ liếm lá đầu
đường.” Chế độ phụ quyền Nho giáo thiết lập nam tôn nữ ti từ luật pháp, lệ làng
đến luân thường đạo lý. Nhưng tôn ti chính thống không hoàn toàn triệt tiêu thực
tế ăn sâu từ cội nguồn gia đình, làng xã. Người phụ nữ Việt Nam tham gia lao
động sản xuất làm ra của cải vật chất và thường là nguồn yêu thương chăm sóc
chồng con, đỡ đần cha già mẹ yếu, là chỗ dựa cho gia đình về nhiều phương diện.
Đảm đang, tần tảo là từ Hán Việt, có thể ngược về từ nguyên từ cổ đại Trung Hoa;
nhưng mẹ hiền vợ đảm thì ai cũng hiểu là những người phụ nữ Việt lặn lội thân
cò, chịu thương chịu khó, thức khuya dậy sớm, cùng lúc làm nhiều việc mà việc
nào cũng chu tất, vẹn toàn, là người giỏi giang, hiệu quả mà thầm lặng hy sinh.
Vô số ca dao hát về tình yêu đôi lứa trong đó phụ nữ là đối tượng yêu thương,
mong nhớ, khát khao, cả giận hờn, oán trách hay thương cảm, xót xa. Cũng rất
nhiều bài nói lên sự quý trọng đối với công lao “gánh vác giang sơn nhà chồng”,
lòng biết ơn và tình cảm sâu sắc, thiết tha của con gái, con trai đối với công
cha nghĩa mẹ
Người yêu, người
vợ, người mẹ, nói chung là người phụ nữ được yêu thương chiếm vị trí rất lớn
trong ca dao và trong tâm hồn người Việt.
Như vậy phải chăng truyền thống là
hoàn toàn tốt đẹp, chỉ cần vun đắp, bảo tồn?
Người ta được phép nghi ngờ khi
rất nhiều ca dao nói về những mối tình dang dở vì “lòng bác mẹ như rương khóa
rồi”, vì “cha mẹ tham giàu ép uổng duyên con”, vì “xấu người mai chước, lỡ chừng
đôi ta”, hay vì đường xa cách trở, vì phụ bạc, lỡ làng; biết bao lời than thở,
hờn duyên trách phận vì tảo hôn, vì đa thê, vì hôn nhân không cân xứng; biết bao
cơ cực nhọc nhằn từ bé gái đến đời mẹ, đời bà, bao cay đắng của phận làm vợ, làm
dâu, của nghèo khổ, thất học và và đói rách… Truyện thơ và ngâm khúc được truyền
tụng có tác giả hay khuyết danh đều chọn phụ nữ làm nhân vật trung tâm; để rồi
thi hào Nguyễn Du hai lần thống trách: “Đau đớn thay phận đàn bà!” Người chinh
phụ, người cung nữ, gái lầu xanh, người kỹ nữ cô đơn trong đêm lạnh Tầm dương
hay người đàn bà thôn dã “em buồn như ngọn nhang tàn thắp khuya”; văn chương bác
học hay bình dân đều có quá nhiều chân dung phụ nữ đau buồn. Và ngay cả khi ca
ngợi những đức tính được xem là truyền thống, hình như người ta cũng quá đề cao
sự chịu đựng, hy sinh, nhẫn nhục, quên mình, “nhịn ăn nhịn mặc nhịn lời mẹ cha”,
“bên ướt mẹ nằm bên ráo phần con”… Đó là chưa nói đến những quan niệm lệch lạc
về chữ hiếu, chữ trinh, chữ tình, chữ nghĩa khiến nhiều phụ nữ không dám làm chủ
cuộc đời mình, đến hôn nhân gả bán, đến vợ lẽ, con nuôi như những quan hệ bán,
đợ trá hình, đến nạn bạo hành trong gia đình nay vẫn còn phổ biến, đến quan hệ
chồng chúa vợ tôi, hay “trai năm thê bảy thiếp” như một sự thường tình, đến
thành kiến “con gái không cần học cao” khiến đường học vấn của nữ gián đoạn
không chỉ vì lý do kinh tế…
Phụ nữ Việt Nam thời hiện đại, chuyển biến trong
nhận thức về giới?
Trong xã hội Việt Nam thời Pháp thuộc, bên cạnh vô vàn tội
ác của thực dân, không thể không tính đến những chuyển biến theo hướng hiện đại
hơn. Phu đồn điền, phu mỏ, công nhân nhà máy, tuy phụ nữ bị bóc lột tàn khốc hơn
vì không có chuyên môn, vì chế độ lương phân biệt, song họ bước đầu biết thế nào
là sự tự chủ kinh tế vì đi làm có lương. Trường học mở ra tuy nhằm mục đích đào
tạo đội ngũ viên chức và nhân viên kỹ thuật không thể thiếu cho việc xác lập bộ
máy cai trị thực dân và nền móng kinh tế tư bản song cũng tạo điều kiện cho
nhiều trẻ em và thanh niên trai gái tiếp thu tri thức mới. Lần đầu tiên nữ học
sinh đến lớp đến trường. Và trong phong trào cách mạng đầu thế kỷ 20, Đông kinh
nghĩa thục cũng như các trường học cách mạng khác bắt đầu có vài cô giáo bên
cạnh các thầy. Lê Thị Đàn được Phan Bội Châu tôn xưng Ấu Triệu, cô Bắc, cô Giang
dưới ngọn cờ Việt Nam Quốc dân đảng của Nguyễn Thái Học, rồi Minh Khai và những
nữ đảng viên cộng sản đầu tiên, những người phụ nữ cứ đông dần lên và được biết
đến nhiều hơn cùng với sự phát triển của cuộc đấu tranh chống áp bức xã hội,
chống chủ nghĩa thực dân.
Một dòng chảy không kém phần quan trọng của lịch
sử, nhất là từ sau Chiến tranh thế giới thứ nhất đến 1945, là sự hình thành trào
lưu văn học và tư tưởng mới. Nền văn học chữ quốc ngữ ra đời và nhanh chóng thay
thế văn học cổ điển Hán-Nôm. Về thể loại - thơ mới, truyện ngắn, tiểu thuyết và
các thể loại báo chí như bản tin, phóng sự, phỏng vấn,… thay thế thơ phú, câu
đối, văn tế cổ điển – cũng như về chủ đề, nội dung, người viết và người đọc, tất
cả đều đổi mới và tự ý thức mình là mới mẻ, như những từ “tân thư, tân văn, thơ
mới” mà họ dùng để chỉ sách báo và tác phẩm của mình. Phụ nữ, tuy số ít song đó
thường là số chị em năng động nhất, bắt đầu theo đuổi việc học lên cao, có người
đi học đại học ở Pháp, số đông hơn học trong nước và hành nghề tự do như dạy
học, viết báo, trở thành văn, thi sĩ; cũng có người mở trường dạy nghề cho nữ,
viết báo cổ động nữ quyền. Nữ học đường như Áo Tím ở Sài Gòn, Đồng Khánh ở Hà
Nội, Huế được biết đến như là nơi đào tạo tầng lớp nữ trí thức tuyệt đại bộ phận
là yêu nước và có ý thức về giới. Báo chí nữ, nhà xuất bản nữ ra đời với tôn chỉ
rõ ràng là ủng hộ cuộc đấu tranh vì nam nữ bình quyền, vì nâng cao dân trí và
khả năng đóng góp của nữ lưu cho dân tộc. Thơ mới, tiểu thuyết vượt ra ngoài
phạm vi đơn thuần văn học để tham gia đặt lại các vấn đề về tự do, hạnh phúc cá
nhân trong tình yêu và hôn nhân, về gia đình, về địa vị, vai trò phụ nữ. Xu thế
ấy tạm lắng khi Cách mạng Tháng Tám 1945 huy động toàn dân vào cuộc đấu tranh
giành độc lập.
Phong trào giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam cùng hai cuộc kháng chiến chống Pháp
và chống Mỹ đã thu hút nhiều thế hệ phụ nữ tham gia. Họ là học sinh, trí thức,
là công nhân, nông dân, là thiếu nữ phơi phới tuổi xuân hay người vợ, người mẹ
tiễn chồng rồi lại tiễn con, cháu lên đường chiến đấu. Trong chiến tranh vào
loại khốc liệt nhất xưa nay, những người phụ nữ có mặt khắp hậu phương, tiền
tuyến, là chiến sĩ hay tướng cầm quân, là người xoa dịu nỗi đau hay nạn nhân
thầm lặng, vừa đánh giặc vừa làm trăm nghìn công việc khác, không ít người vì
cuộc chiến kéo dài mà gác lại bao nhiêu sinh hoạt đời thường như yêu đương, lấy
chồng, sinh con, nuôi dạy con khôn lớn, như học tập, hành nghề, lo cơm áo cho
gia đình, thực hiện hoài bão, ước mơ riêng. Từ khắp mọi miền đất nước họ đã cùng
dân tộc viết những trang đau thương, anh dũng của cuộc kháng chiến bền bỉ và rất
đỗi anh hùng, vì độc lập tự do cho tổ quốc và vì nhân cách con người. Nhiều tác
phẩm văn học, nghệ thuật, tranh tượng, phim ảnh đã khắc họa chân dung người phụ
nữ trên nhiều mặt trận và mấy chục năm sau khi chấm dứt chiến tranh, đang bước
đầu đi vào ngóc ngách tâm hồn giới nữ trong ngổn ngang tình cảm riêng tư, bộn bề
cuộc sống muôn màu muôn vẻ.
Lịch sử đấu tranh cách mạng và hai cuộc kháng
chiến, tuy đã có nhiều trang sách báo, thơ ca, nhiều tác phẩm đủ thể loại đề
cập, song công chúng nhiều thế hệ trong và ngoài nước vẫn như còn khao khát được
biết rõ hơn, chân xác hơn nhiều khía cạnh, trong đó những mảng chưa được soi
sáng đầy đủ thường rơi vào số phận cá nhân, đặc biệt là người phụ nữ, dù họ đã
được ngợi ca, xưng tụng khá nhiều. Lắng đọng sau lời ca ngợi tính cách anh hùng
rất thực, người ta đang mong chờ lịch sử và nghệ thuật tái hiện sinh động hơn
nữa, phân tích sâu sắc hơn nữa những thân phận con người, với biết bao thăng
trầm, biến đổi, với những hoàn cảnh chung, riêng và vui buồn sướng khổ may rủi
riêng tư, cá biệt, với những chọn lựa và quyết định cá nhân dù cùng hướng hay
ngược chiều xu thế chủ đạo. Người ta cũng mong nhận dạng được, trong dòng chảy
chung, những cộng đồng bộ phận – vùng miền, nghề nghiệp, thế hệ,… - trong đó
không thể không tính đến phụ nữ, trẻ em. Một lần nữa, lịch sử giới, và quan điểm
giới nói chung, chẳng những sẽ góp phần làm lịch sử chung toàn diện, đầy đủ hơn,
mà chắc chắn sẽ phát hiện thêm nhiều mới mẻ còn tiềm ẩn. Ý thức đã có, và cũng
có những thành tựu bước đầu, như Bảo tàng Phụ nữ Nam bộ, rồi Bảo tàng Phụ nữ
Việt Nam; như việc phong tặng “mẹ Việt Nam anh hùng”; như Khoa Phụ nữ học đã
được thành lập ở một trường Đại học rồi đáng tiếc bị thay bằng một danh xưng
khái quát chung chung. Mong sao ý thức giới trong nghiên cứu, giáo dục và đào
tạo, đặc biệt là trong khoa học xã hội và nhân văn tiếp tục tự khẳng định mình
và được hưởng ứng rộng rãi, hiệu quả hơn nữa.
Nhưng phụ nữ thời nay còn là
tác nhân của hiện tại và tương lai, là người tham dự vào thực tiễn xã hội đang
thay đổi nhanh chóng cùng thời đại. Một trong những thành tựu của cách mạng và
kháng chiến là khẳng định năng lực và phẩm chất của phụ nữ trong mọi lãnh vực
hoạt động, kể cả những lãnh vực “phi truyền thống” nhất. Không phải đã hết những
định kiến, nghi ngại, thậm chí là kỳ thị; song nhìn toàn cục, người quan sát
trong và ngoài nước dễ thống nhất nhận xét phụ nữ Việt Nam, cả về số lượng và
chất lượng đóng góp, có vẻ gìn giữ và phát huy được vai trò của mình trong nhiều
mặt sinh hoạt, cả trong gia đình và cộng đồng rộng lớn hơn, trong học tập, hoạt
động nghề nghiệp hay hoạt động chính trị, xã hội. Truyền thống dân tộc và truyền
thống cách mạng có phần đi cùng một hướng; việc kỷ niệm cùng lúc truyền thống
Hai Bà Trưng và ngày Quốc tế Phụ nữ 8/3 vì thế, không phải là không có cơ
sở.
Thực tế thuận lợi đó, tuy vậy, không nên làm chúng ta quên đi một số thực
tế khác, không kém phần rõ nét.
Trước hết, Việt Nam vẫn là một nước nghèo;
hậu quả chiến tranh và thời đầu hậu chiến chưa phải đã được hoàn toàn khắc phục;
biểu hiện là sự chậm và kém phát triển về giáo dục, kinh tế, về khoa học và kỹ
thuật cũng như tổ chức quản lý tài nguyên thiên nhiên, quản lý tài chính và nhân
lực. Những tổn thất về sinh mạng, những di chứng chiến tranh đã khiến số lượng
gia đình đơn thân, trẻ mồ côi, thương bệnh binh và người khuyết tật, số lượng
người thiệt thòi về học vấn, đào tạo nghề và do đó về cơ hội cải thiện mức sống
đông hơn tình trạng chung của các quốc gia kém phát triển. Phụ nữ vừa là nạn
nhân trực tiếp vừa thuộc số đông gánh chịu hậu quả gián tiếp của các bất hạnh
trên. Trong cơn lốc của phát triển kinh tế thị trường mà chính quyền dù quyết
tâm và thiện chí đến đâu cũng khó lòng kiểm soát mọi tác động tiêu cực, những
người có nhiều nguy cơ bị gạt ra bên lề cũng lại vẫn là phụ nữ, trẻ em, khó
thoát khỏi vòng xoáy đi xuống của đói nghèo, thất học, rơi vào tệ nạn xã hội.
Mua bán dâm, bạo hành, hôn nhân không tự nguyện và không bình đẳng, phụ nữ, trẻ
em mất nhân cách và bị biến thành hàng hóa hay thành nô lệ thời hiện đại, những
thảm cảnh quá phổ biến từ xa xưa không chỉ là những bóng ma của quá khứ mà đang
tiếp tục hoành hành như những tai họa xuyên quốc gia.
Những vấn đề nóng bỏng
ấy, tuy nhiên, lại là thực tế hiển nhiên. Chúng ta không khó nhận thức và cũng
có cơ hội tranh thủ sự hỗ trợ từ quốc tế góp sức cùng chúng ta chống đỡ. Có một
loại nguy cơ khác, tiềm ẩn và khó phát hiện hơn, khó nhận dạng hơn; và cũng khó
có ai góp sức giải quyết ngòai chính chúng ta, người Việt Nam và trước hết là
phụ nữ Việt Nam.
Sức mạnh của truyền thống, kể cả truyền thống tích cực như
phân tích ở trên có khi lại có mặt trái là không thôi thúc chúng ta đổi mới,
thậm chí không cho phép chúng ta thoát khỏi lối mòn trong nhận thức, tư duy.
Người phụ nữ Việt Nam từng trải hàng nghìn năm đảm đang và chịu đựng, hy sinh.
“Đảm đang” là từ Hán Việt, mà nghĩa từ nguyên là đảm nhiệm, gánh vác trách
nhiệm; khái niệm đó vốn dĩ không có gì quy định nó phải thuộc về “nữ tính”.
Nhưng đối với phụ nữ Việt Nam, đó đã là truyền thống ăn sâu; từ cô bé còn ở tuổi
ham ngủ ham chơi đến người chị, người vợ, người mẹ, người dì, cô, thím, mợ, cả
đến tuổi bà, tuổi cụ, người phụ nữ Việt thấm nhuần giá trị “đảm đang” đến nỗi
không ai không ngại ngùng, xấu hổ nếu phải thừa nhận hay bị đánh giá không phải
là gái đảm. Vấn đề là hiểu nghĩa từ “đảm đang” như thế nào để tránh xơ cứng và
thể hiện quan tâm chia sẻ nhọc nhằn, áp lực với người vợ, người mẹ đảm. Còn
“chịu đựng, hy sinh” thì hình như giới nữ trong xã hội phụ quyền Đông Tây kim cổ
đều đã được giáo dục đức tính ấy thuộc về “nữ tính”. Đó là chưa nói đến “tam
tòng, tứ đức” của Tống Nho mà nhiều người vẫn chưa muốn gột bỏ khỏi “truyền
thống dân tộc”; để rồi, tuy “tam tòng” là rất khó bảo vệ thời nay song “tứ đức”
vẫn còn không ít người lưu luyến tìm cách đổ rượu mới vào bình cũ. Thật đáng
tiếc khi cứ phải dùng bình cũ, trong lúc đã có những tổng kết tuyệt vời như tám
chữ vàng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh ban tặng phụ nữ Việt Nam: “anh hùng, bất khuất
– theo chúng tôi hiểu, không chỉ trong chiến đấu vũ trang hay đấu tranh cách
mạng – trung hậu, đảm đang (thay vì “nhẫn nhục, hy sinh” hay “tòng, tùy” ai
đó)!
Chúng tôi không hề cho rằng những truyền thống có thật ấy là đã lạc hậu,
cần loại bỏ. Truyền thống đã từng là nguồn suối vô tận nuôi dưỡng ý chí, nghị
lực để hàng chục triệu phụ nữ Việt Nam nhiều thế hệ làm nên kỳ tích trong chiến
đấu hay nuôi lớn và tu tâm dưỡng tính con em mình trong gian khó, đói nghèo. Sẽ
càng nguy hiểm hơn nếu chúng ta vội vàng đánh mất giá trị cũ trong khi giá trị
mới chưa thực sự định hình và còn nhiều vàng thau lẫn lộn.
Chỉ ước mong sao
chúng ta tôn trọng truyền thống mà biết đề phòng những biểu hiện cực đoan; cả
người quan sát Việt Nam và ngoại quốc từng cảnh báo: xu hướng ít nhiều quá ôm
đồm, bảo bọc, bao che, khiến con trẻ không còn cơ hội trưởng thành, và cả chồng,
cha cũng trở nên quá “vô tư”. “Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà”; câu tục ngữ ấy
chắc chẳng phải do nhà nho trọng nam khinh nữ nào phát biểu mà đúng hơn là tiếng
nói “lý trí” trước sự nuông chiều quá cảm tính của số đông trong phái nữ. Hay
một bài báo gần đây mượn lại lời một ca khúc nổi tiếng từng lay động nhiều thế
hệ để nhắc nhở nguy cơ “chết đuối trong biển Thái Bình” của con, nhất là con
trai trong lòng mẹ bao la.
Mong cơ quan và Công Đoàn bớt cứng nhắc trong yêu
cầu sự thành công toàn diện với phong trào “hai giỏi”; mong đông đảo những người
đàn ông đang vô cùng yêu quý bạn gái, người yêu, vợ và nhất là mẹ của mình sẽ
lưu tâm tránh “thiêng liêng hóa”, “thần tượng hóa” người phụ nữ được yêu, tránh
trông cậy quá nhiều ở mẹ hiền, vợ đảm. Mong các chị tự giải phóng mình khỏi
những định kiến dù là “tích cực” về “truyền thống phụ nữ” hay “người phụ nữ
truyền thống”. Trước hết là để tránh khắc nghiệt trong nhìn nhận lẫn nhau, để
cởi mở và hợp tác hơn trong làm việc nhóm. “Giặc bên Ngô không bằng bà cô bên
chồng”, chẳng phải phụ nữ vẫn vừa là nạn nhân vừa là đao phủ trong những bi kịch
ghen tuông, mẹ ghẻ con chồng, mẹ chồng nàng dâu, và hay “mang tiếng” chi li đến
thành nhỏ mọn khi nắm trách nhiệm quản lý, được quý trọng vì sự tận tụy nhưng
cũng làm người ta mệt mỏi vì tính so đo và “bệnh” kể công…? Cũng để cho phép
phát huy nhiều nét đẹp mới của “nữ tính”; để đông đảo phụ nữ được quan tâm tạo
điều kiện học hành, có nghề nghiệp mưu sinh; để từ sự tự chủ về tri thức, về tư
duy, về tài chính, vươn lên sự tự chủ đích thực mà nếu chưa có nó thì chưa thể
xem là một nhân cách trưởng thành và tự do.
Truyền thống có thể là quả núi có
nguy cơ đè bẹp hiện tại và che khuất tương lai; cũng có thể là suối nguồn nuôi
sức sống mãnh liệt của thực tiễn cuộc sống không ngừng đâm chồi nảy lộc. Bài
viết này mong góp phần nhỏ làm tươi nguồn cội và khơi dòng hướng đến ngày mai.
- Blogger Comment
- Facebook Comment
Đăng ký:
Đăng Nhận xét
(
Atom
)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét