Văn hóa nhà rông

Từ lâu, nói đến Tây Nguyên là người ta liên tưởng ngay đến sừng sững nhà rông như một biểu trưng của khát vọng, của ý chí và sức mạnh Tây Nguyên. Ngôi nhà rông luôn uy nghi giữa làng với biết bao bí ẩn đối với người lạ và thành kính thiêng liêng đối với cư dân trực thuộc. Nhà rông từ lâu đã là một phần hồn của các dân tộc sống ở Tây Nguyên. Trước hết nó mang ý nghĩa tín ngưỡng, như đình làng đối với người Kinh. Tất cả việc làng đều được đem ra nhà rông giải quyết.


Người Tây Nguyên quan niệm nhà rông là nơi khí thiêng của đất trời tụ lại để bảo trợ cho dân làng, vì thế trong mỗi nhà rông đều có một nơi thiêng liêng để thờ các vật thiêng, nhiều khi chỉ là một con dao, hòn đá, chiếc sừng trâu... người lạ không được xem những vật này, hoặc nếu muốn xem thì phải cúng rất kỹ càng. Trong những thành tố làm nên bản sắc văn hóa Tây Nguyên thì nhà rông chứa một vai trò quan trọng. Người ta thường đánh giá sự hùng mạnh trù phú của một làng Tây Nguyên qua nhà rông. Nhà rông chỉ gắn với làng, không có nhà rông cấp tỉnh cấp huyện hoặc nhà rông liên làng, là bởi nó gắn với sinh hoạt và tín ngưỡng của một cộng đồng cư dân nhất định. Xưa kia đã là làng Tây Nguyên là phải có nhà rông, làng không có nhà rông bị gọi là làng... đàn bà. Ngày nay do rất nhiều yếu tố chủ quan và khách quan, các “làng đàn bà” đang ngày một nhiều, đặc biệt ở các tộc người phía nam Tây Nguyên. Làng có nhà rông được các làng khác kính trọng, được “bắt” về làm dâu làm rể làng ấy là ước mơ kiêu hãnh của các chàng trai cô gái làng khác. Nhà rông là nơi thiêng liêng nên thường thì phụ nữ không được lên nhà rông, trong các buổi họp làng hoặc nghi lễ, họ ngồi... dưới gầm sàn để dự. Thảng hoặc có làng làm 2 nhà rông, nhà rông chính là nhà rông đực, còn nhà rông nhỏ gọi là nhà rông cái cho phụ nữ sinh hoạt, chúng tôi hỏi nhiều người và đều chưa nhận được câu trả lời thỏa đáng là tại sao ở chế độ mẫu hệ mà nhà rông cái lại nhỏ hơn, lại đóng vai trò phụ? Trong nhà rông, hai nơi thiêng liêng nhất là nơi thờ vật thiêng và bếp lửa. Trước sân là cây nêu, nơi hành lễ đâm trâu. Chính tại đây mà các nghi lễ giữa con người và vũ trụ được tiến hành. Cây nêu cao vút cùng với mái nhà rông kiêu dũng như một lưỡi rìu lộn ngược tạc vào trời xanh như khát vọng, như một chứng tích của con người trước thiên nhiên hùng vĩ. Điều đặc biệt trong việc làm nhà rông là nghệ nhân không cần thiết kế, không cần bản vẽ, dụng cụ để hành nghề chỉ là rìu và rựa, và vật liệu chỉ là gỗ, tranh, tre lấy từ trong rừng, không có bóng dáng của đinh, dây thép, bê tông của đời sống văn minh... thế mà vững chãi, mà trường tồn trong thời gian và lịch sử cả vật chất và tinh thần, như sự bảo chứng cho khí phách, sự tài hoa và lòng nhân ái của con người trước tự nhiên đầy bất trắc và khôn lường.


Thoạt trông các nhà rông tưởng là đều giống nhau, nhưng thực ra nó mang dấu ấn cá nhân của người làm khá rõ. Điều này làm cho việc làm các nhà rông truyền thống gần giống với sáng tạo nghệ thuật, nơi in đậm dấu ấn cá nhân con người với tư cách chủ thể sáng tạo, nơi tài hoa cá nhân được phát tiết một cách tự do nhất, say mê nhất, hào hứng nhất... Và cũng điều này khiến cho nghệ nhân làm nhà rông trở thành của quý, nhất là có một quy định bất thành văn là nghệ nhân không được sang vùng khác làm giúp nhà rông, và việc làm nhà rông chỉ diễn ra vài ba chục năm một lần. Các dịp làng sửa hoặc làm mới nhà rông chính là dịp để các nghệ nhân lớn tuổi truyền nghề cho con cháu. Đây là những dịp lễ quan trọng, khá lâu mới có dịp tổ chức bởi nó phụ thuộc vào tiềm lực kinh tế của làng.

Các nhà rông nhà nước (do nhà nước đầu tư kinh phí làm) hiện nay đang khá phổ biến là các nhà rông văn hóa, mà thực sự là nhân dân rất ít đến, nếu không muốn nói là khóa cửa ngay sau khi bàn giao, như một loạt các “nhà rông văn hóa” hàng vài trăm triệu đồng mỗi cái “mọc” lên rất nhiều ở Tây Nguyên, ví dụ xã A Yun, huyện Mang Yang, hoặc xã Ia Vê, Chư Prông, Gia Lai vừa khánh thành nhà rông 500 triệu đồng chẳng hạn), thường là phải từ trăm triệu trở lên.

Rất nhiều “nhà rông văn hóa” bằng bê tông và tôn đã không được cộng đồng chấp nhận, thế mà nó vẫn được sinh sôi, trong khi nhà rông truyền thống đang mất đi, đang trở thành quý hiếm, trừ ở tỉnh Kon Tum, nơi tỉnh ủy đã ra nghị quyết: “Khôi phục nhà rông truyền thống...”.


Các nhà rông truyền thống là ý chí, sức lực, tiền của của cả làng góp vào, vì thế có thể tiền không tốn nhiều như thế, nhưng nó lại mang đậm ý nghĩa cộng đồng. Nhà rông được cả cộng đồng làm chủ, nó là khát vọng của cả cộng đồng ấy, không thể có chuyện “thay mặt khát vọng” để dựng lên những nhà rông bê tông lợp tôn khệnh khạng giữa những làng đồng bào Tây Nguyên nhà sàn lúp xúp bên suối hoặc chênh chếch trên sườn đồi.

Nhà rông còn rất nhiều bí ẩn mà người ta chưa khám phá hết, ví dụ như ai cũng biết “cao nguyên lộng gió”, những cơn gió như những con ngựa bất kham lồng lộn trên thảo nguyên, có thể cuốn phăng những gì chúng gặp trên đường. Thế mà nhà rông lại luôn vút cao giữa đồi, như một con gà mẹ giữa bầy gà con là các nhà sàn quây quần xung quanh, lại rất mỏng manh với mái như một cánh buồm và chỉ cột bằng lạt... thế mà chưa một mái nhà rông nào bị gió cuốn? Thêm nữa, nhà rông hoàn toàn làm bằng tranh tre nứa lá, giữa nhà bao giờ cũng có bếp lửa, đồng bào đến nhà rông bao giờ cũng cầm đuốc, và họ luôn luôn hút thuốc, những ống thuốc to sụ, rít lên, lửa lóe sáng bập bùng... thế mà chưa bao giờ, hoặc nói chính xác là rất ít khi nhà rông... cháy! hoặc nữa như nhà rông rất ít muỗi, đêm đêm thanh niên lên ngủ la liệt, cán bộ đi công tác về làng cũng toàn ra nhà rông mắc võng vắt vẻo ngủ! Tôi thì cho rằng những đêm được ngồi trong nhà rông bên ánh lửa phập phù tối sáng, giữa âm thanh trầm hùng xa vắng của chiêng và dìu dặt tiếng kơ ní tâm tình, lặng lẽ vít cần rượu ngắm những đôi mắt Gia Rai, Ba Na mới thú vị làm sao. Mắt con gái ngấm men ăn đèn có một vẻ hoang sơ lạ lùng lắm. Nó đưa con người vào một thế giới ảo, ở đó hun hút bí ẩn và ngập tràn đam mê, ở đó xốn xang tưởng tượng và mênh mang khát vọng, ở đó mông lung và kỳ thú, ngất ngây và thăng hoa, bồng bềnh hư ảo rạo rực lâng lâng... Vì thế, đừng thổi lửa to quá, cũng đừng dụi tắt bếp đi, hãy để nó ngun ngún thế, phập phù thế, đấy chính là cơ hội để mình tẩy rửa, thanh lọc, để mình ngắm lại mình... Ngày mai, về lại phố, kiếm đâu ra khoảnh khắc thần tiên ấy giữa rờ rỡ ánh đèn cao áp. Tôi đã có nhiều đêm ngồi như thế để nghe kể khan, để hóa thân thành Diông Dư, thành Bok Keidei... mà đắm đuối nàng Bia nàng Vai, để hình dung từ thuở khai thiên lập địa, cả dải đất Việt Nam này chỉ là một dân tộc thôi, sống cùng một nơi nói cùng một tiếng nói, cho đến ngày họ làm một cái nhà rông. Mãi mãi nhà rông là một tài sản vô giá với nhiều bí ẩn, nhiều tài hoa lý thú phía sau dáng vút cao mà mềm mại, những đường cong trữ tình mà cứng cáp, uy vũ mà dịu dàng, mỏng manh mà trường tồn, bề thế mà khiêm nhường, hoành tráng mà chừng mực... làm nên một bản sắc Tây Nguyên không thể lẫn, như một khát vọng gửi vào trời xanh, gửi vào thời gian, gửi vào mai sau... của tâm hồn Tây Nguyên...




Vùng Bắc Tây Nguyên là thủ phủ của các dân tộc: Zarai; Bahnar; Xê Đăng, Zẻ Triêng, Brâu v.v... Nơi đây là một vùng đất đậm đặc truyền thống sử thi và là nơi cội nguồn của ngôi nhà Rông truyền thống. Nhà Rông của đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên là cả một tác phẩm nghệ thuật lớn bao gồm điêu khắc, hội họa, trang trí,… đặc biệt là sự thể hiện không gian thiêng liêng, sức mạnh cộng đồng và niềm kiêu hãnh dân tộc, là linh hồn của làng bàn. Nhìn vào nhà Rông, có thể đánh giá được khả năng hội họa và điêu khắc cùng với sự giàu nghèo của buôn làng đó.



Phần 1- "Nhà Rông- biểu tượng văn hóa cộng đồng của dân tộc Tây Nguyên"

Tương tự như ngôi đình làng Việt, Nhà Rông là nơi diễn ra toàn bộ sinh hoạt cộng đồng của dân tộc thiểu số Tây Nguyên, là trụ sở của bộ máy quản trị buôn làng, nơi sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng, nhà khách… ; là nơi thể hiện các lễ hội tâm linh cộng đồng và là nơi các thế hệ nghệ nhân già truyền đạt lại cho thế hệ trẻ những giá trị văn hóa truyền thống ..., nơi lưu giữ các hiện vật truyền thống: cồng, chiêng, trống, vũ khí, đầu các con vật hiến sinh trong các ngày lễ, và là nơi đứa trẻ, từ tấm bé đã được quây quần quanh bếp lửa nghe người già kể khan; nơi người lớn được tụ họp hằng đêm, nói cho nhau nghe chuyện của núi rừng...

Theo Tạ Đức trong cuốn “Nguồn gốc và sự phát triển của kiến trúc biểu tượng và ngôn ngữ Đông Sơn”, quan niệm: mô-típ "tháp" (ở đây là nhà Rông) chính là một biến thể của biểu tượng cây vũ trụ trong huyền thoại khởi nguyên của nhiều tộc người. Từ điển Bana - Pháp của Guilleminet cho biết: rông = hơrông = jong = wal đều có nghĩa là nhà công cộng ở người Bana, Xê-đăng và một làng Giarai tiếp giáp với người Bana. Đó là nơi hội họp của cả làng, là trụ sở của dân quân tự vệ làng, nơi ngủ của trai chưa vợ, đàn ông góa còn trong tuổi cầm vũ khí, nơi đón tiếp khách và nơi nghỉ của khách quý... Theo Condominas, trong tiếng Muông Gar có từ ndroong Yaang có nghĩa là cái bàn thờ nhỏ treo một bên mái, chỉ làm khi cúng trâu; và từ rơơn có nghĩa là nhà trong làng ở tạm. Theo Roux, ở người Khơmu (Tây Bắc) gang giông = nhà sàn, và theo Izikowitw người Khơmu ở Tây Bắc và người Lamet ở Lào có công = nhà làng. Trong tiếng Xiêm, có rong = nhà, rong raem = khách sạn, rong phây barn = bệnh viện. Đồng bào Djarai gọi là “Sang Roong”, Bahnar gọi là “Nal” hay “H’năm fơng”, Triêng gọi là “N’Ring”, K’Tu gọi là “ Gươl”... Người Tây Nguyên quan niệm nhà Rông, tức nhà Sàn là nơi khí thiêng của đất trời tụ lại để bảo trợ cho dân làng, vì thế trong mỗi nhà rông đều có một nơi thiêng liêng để thờ các vật thiêng, nhiều khi chỉ là một con dao, hòn đá, chiếc sừng trâu…

Trong những thành tố làm nên bản sắc văn hóa Tây Nguyên thì nhà Rông chứa một vai trò quan trọng. Quan trọng bởi bên cạnh giá trị vật chất, nó là nơi ẩn chứa những tầng văn hóa tâm linh rất bền vững của cư dân Tây Nguyên. Mà không chỉ là tâm linh, nó là máu, mồ hôi, nước mắt, là vinh quang kiêu hãnh, là dư ba những ước vọng cao cả của con người trước thiên nhiên, trước vũ trụ. Người ta thường đánh giá sự hùng mạnh trù phú của một làng Tây Nguyên qua nhà Rông. Nhà Rông chỉ gắn với làng, không có nhà rông cấp tỉnh cấp huyện hoặc nhà rông liên làng, là bởi nó gắn với sinh hoạt và tín ngưỡng của một cộng đồng cư dân nhất định.


Nhà Rông là nơi diễn ra các lễ hội dân gian, là nơi tiếp đón khách quí đến thăm buôn làng. Nhà Rông là nơi hội họp của các già làng, phân xử các vụ kiện tụng, tranh chấp liên quan đến cộng đồng. Nhà Rông còn là nơi để các thanh niên nam nữ đến gặp gỡ, tỏ tình và kết duyên chồng vợ. Theo tập tục ở đây, thanh niên chưa vợ, chưa chồng ban đêm phải đến ngủ tại nhà Rông, ngay cả phụ nữ chết chồng hay li dị chồng cũng vậy. Tuy gần gũi nhau, nhưng trai gái các buôn làng không bao giờ để xảy ra chuyện ái tình vụng trộm, do bị phong tục lên án gắt gao và bị lệ làng phạt vạ rất nặng. Người ta gọi một ngôi làng không có nhà Rông là "làng đàn bà", tức cũng gần như nói một cái làng chưa ra làng, chưa xứng đáng là làng. Đấy mới chỉ là một tập hợp rời rạc những cái nhà chưa có hồn, trong đó chứa những sinh linh cũng chưa có hồn, chưa thật sự là con người, bởi người ta chỉ thành người khi được thổi vào đấy hồn người, mà hồn người đối với người Tây Nguyên thì phải là hồn làng. Nhà Rông được coi là linh hồn của làng,nơi hội tụ khí thiêng của đất trời, sông núi, là nơi lưu giữ những giá trị thiêng liêng của buôn làng. Buôn làng có nhà Rông như được tiếp thêm sức sống. Theo tư duy truyền thống của đồng bào các dân tộc thì nhà Rông là một thành tố không thể thiếu trong đời sống cộng đồng (văn hóa làng). Nhà Rông bao quát mọi tinh hoa văn hóa sáng tạo của con người trong môi trường sinh thái tự nhiên, vừa hùng vĩ vừa tiềm ẩn những yếu tố tâm linh, là biểu hiện của văn hóa rừng và sự cố kết cộng đồng người gắn với thiên nhiên.

Nhà Rông là hình ảnh thu nhỏ của các thành tố văn hóa truyền thống của một làng, một tộc người. Nó chiếm giữ vị trí quan trọng nhất trong tư duy và hiện thực đời sống sinh hoạt của tất cả các thành viên trong cộng đồng. Đối với cộng đồng các dân tộc thiểu số thì “Dân tộc – Làng – Nhà Rông” là mối quan hệ không thể tách rời, cũng như làng của người Kinh gắn với cây đa, bến nước, sân đình. Nhà Rông hùng vĩ vươn lên bầu trời với hình dáng như một lưỡi búa khổng lồ biểu hiện sức mạnh của một cộng đồng làng, thể hiện tinh thần thượng võ, đầy uy quyền, như là chế ngự không gian và thời gian để khẳng định chủ quyền, lãnh địa của làng.


Làng – nhà Rông – lễ hội của đồng bào các dân tộc thiểu số có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ. Văn hóa làng sản sinh ra văn hóa lễ hội và văn hóa nhà Rông, lễ hội dân gian truyền thống tôn vinh quyền uy của nhà Rông còn nhà Rông lại là điều kiện và môi trường để thể hiện lễ hội. Cả hai đều có ý nghĩa duy trì lẫn nhau và nằm trong nhau. Trong khi đó thì lễ hội là đất sống của gần như tất cả các loại hình văn hóa, văn nghệ dân gian cổ truyền từ các lễ thức, phong tục, tập quán đến các loại hình diễn xướng dân gian, nhạc cụ dân tộc, trang phục, ngôn ngữ, ứng xử... bởi thế nên nhà Rông lại càng có vị trí hết sức quan trọng trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng, nhà Rông vừa có giá trị văn hóa vật thể (hữu hình), lại vừa có giá trị văn hóa phi vật thể (nội dung bên trong, nơi thể hiện lễ hội). Những hình ảnh bếp lửa nhà Rông bập bùng, những ghè rượu cần cột thành dãy hai bên bếp, âm thanh trầm hùng của cồng chiêng, những vòng xoang uốn lượn và gương mặt rạng rỡ của các già làng, các chàng trai cô gái trong lễ hội ở nhà Rông thể hiện một không gian văn hóa hết sức mộc mạc, đầm ấm, quây quần trong sự cố kết cộng đồng không thể tách rời làm nên bản sắc phong phú, độc đáo của văn hóa truyền thống dưới mái nhà Rông.


Men theo những huyền thoại trong những trường ca, sử thi cổ, tôi lặn lội đến Tây Nguyên để được chìm vào không gian văn hóa nhà rông, nơi hội tụ toàn bộ văn hóa tinh thần của làng, vốn được coi là bộ phận thiêng liêng trong đời sống đồng bào dân tộc ở Tây Nguyên, cả về vật chất cũng như tinh thần.

Nhà Rông Tây Nguyên không khác biệt nhiều so với nhà rông của các dân tộc thiểu số dải Trường Sơn. Nóc nhà có 2 mái, nơi chỏm đầu dốc có một đôi sừng. Quan sát thật kỹ mới thấy những chi tiết khác với nhà ở: Chạy dọc trên sóng nóc nhà là một dải trang trí đặc biệt. Sàn nhà thường được ghép bằng những tấm đan bằng tre lồ ô, nứa hoặc cây giang. Giữa nhà có một hàng lan can chạy dọc. Hàng lan can này chính là chỗ dựa của những ché rượu cần khi làng tổ chức lễ hội. Hoa văn trang trí trên vách có 2 màu đỏ và xanh. Người Băhnar thường sử dụng cặp sừng trâu, cây cột ở gian chính giữa được chạm khắc tinh vi (s’drang mặt nar-mặt Trời) sao tám cánh, hình thoi, chim, người... Đây là công trình kiến trúc và nghệ thuật tập thể của cả cộng đồng dân làng.



Khi lập một làng mới, tức là sự kiện trọng đại nhất trong đời sống cộng đồng, những người già nhất trong làng, từng trải và hiền minh nhất, gắn bó và nhiều kinh nghiệm nhất về núi rừng, là pho sử sống của cộng đồng, thay mặt làng đi tìm đất, chọn vị trí đẹp nhất cho làng. Theo lưu truyền thì việc xây dựng nhà Rông phải tuân theo nghi thức trang trọng. Từ khi chuẩn bị làm nhà, già làng tụ tập tất cả những người tài giỏi nhất trong làng để hội bàn. Họ bỏ ra hàng tuần, thậm chí hàng tháng để chọn nơi dựng nhà Rông. Nơi dựng nhà Rông phải cao ráo, thoáng mát về mùa nắng, ấm áp về mùa mưa, nằm ở trung tâm của làng, đi từ các con đường về, từ xa phải nhìn thấy mái nhà Rông. Khu đất ấy phải bằng phẳng, rộng đủ để tập trung số người ít nhất là gấp ba lần số người của làng.

Ngày vào rừng chọn gỗ được tổ chức rất chu đáo. Trước đó 9 ngày, 9 người được già làng chọn để "trao đổi" về hướng đi vào rừng. Ngày hôm ấy già làng sẽ tổ chức một lễ nhỏ có thịt gà, cơm nếp, thầy mo đến cúng. Tất cả những gì bàn bạc đều được các thành viên giữ kín cho đến trước khi xuất phát 3 ngày. Sau 6 ngày kể từ khi "họp", mỗi thành viên phải chọn thêm một, hai người có sức khỏe, nhanh nhẹn, tháo vát cùng đi với đoàn. Để chuẩn bị cho chuyến đi, tất cả những thành viên đều phải tự lo tư trang, lương thực đủ dùng trong 9 ngày. Ngày đầu tiên vào rừng, khi tìm được cánh rừng có nhiều gỗ tốt, cả đoàn dừng lại, thợ cả cùng 8 người nữa vác rìu chọn một cây to, cả 9 người đứng vòng quanh, giơ rìu hú 9 tiếng lớn.

Sau đó, mỗi người chặt 9 nhát vòng quanh cây rồi về nơi tập kết của đoàn nghỉ ngơi. Từ ngày hôm sau, cả đoàn bắt đầu khai thác, khi có đủ 4 cây cột góc cho ngôi nhà thì về làng. Ngày dựng nhà Rông là ngày hội của làng, thường là trong tháng Mười âm lịch. Sau bài cúng tập thể đầu tiên của 8 già làng bên cái lễ có gà và 12 ché rượu cần, tiếng của dàn chiêng 12 chiếc bắt đầu nổi lên, tốp múa gồm 12 cô gái mặc trang phục dân tộc nhập vào cùng đội chiêng để "xoang" quanh mâm cúng khi bài cúng thứ năm, bài cuối cùng kết thúc.



Nhà Rông thường dài khoảng 10m, rộng hơn 4m, cao 15 - 16m, nhưng có những ngôi chỉ cao 7-8m... Tính đa dạng trong kiến trúc của mỗi dân tộc ở Tây Nguyên còn là ở kết cấu của ngôi nhà. Nhà Rông của người Tây Nguyên không dùng đến sắt thép. Các chỗ nối, chắp đều được chặt, đẽo cẩn thận rồi dùng mây, lạt tre để buộc.Từng mối buộc của các dân tộc cũng khác nhau. Cầu thang lên Nhà Rông, các dân tộc thường đẽo 7 đến 9 bậc. Trên đầu cầu thang của mỗi dân tộc khác nhau. Người Ba Na là hình ngọn cây rau dớn, người Ja Rai là hình quả bầu đựng nước, người Xê Đăng, Jẻ Triêng là hình núm chiêng hay mũi thuyền, có Nhà Rông trên nút đầu của cầu thang lại tạo dáng hình ngực thiếu nữ... Kể từ ngày Nhà Rông được khánh thành, con trai làng chưa vợ đều phải đến đây ngủ để bảo vệ. Bởi vậy, kiến trúc dân gian của nhà Rông hết sức độc đáo và mỗi dân tộc mang một kiểu cách khác nhau. Tất cả được xây dựng bằng đôi tay tài hoa, bằng cả trí tuệ và sức lực của cộng đồng. Nhà Rông gắn chặt với tâm lý, tình cảm và sinh hoạt xã hội, tôn giáo của đồng bào Tây Nguyên. Xa nhà Rông thì nhớ, đến với nhà Rông thì vui. Nhà Rông là trái tim của buôn làng đời đời không thể nào xoá nhoà trong tâm trí người Tây Nguyên.

Hai loại nhà Rông xuất hiện ở Tây Nguyên gồm nhà Rông trống (đực) và nhà Rông mái (cái). Nhà Rông trống, tiếng Jrai gọi là Rông tơ nao, có mái to, cao chót vót. Có nhà cao đến 30m. Nhà Rông trống được trang trí rất công phu. Nhà Rông mái được gọi là Rông Ana, nhỏ hơn, có mái thấp. Hình thức bên ngoài và bên trong đơn giản hơn.Trên những vì kèo được trang trí những hoa văn có màu sắc rực rỡ mang tính tôn giáo thờ phụng, những sự tích huyền thoại của dũng sĩ thuở xưa, những thú vật được cách điệu, những vật, những cảnh sinh hoạt gần gũi với cuộc sống buôn làng. Nổi bật trong trang trí nhà rông là hình ảnh thần mặt trời chói sáng. Nhà rông càng to đẹp thì càng chứng tỏ buôn làng giàu có, mạnh mẽ.

Nhà Rông là một trong những di sản văn hoá rất tiêu biểu, gắn với lịch sử cư trú lâu đời của các dân tộc Tây Nguyên, với kĩ thuật đơn giản, kiến trúc khá đa dạng tạo nên vẻ đẹp đặc sắc trước hết ở kiểu dáng, nó không chỉ hấp dẫn bởi kiểu dáng đẹp cùng các hình thức trang trí đặc sắc mà còn đặc biệt ở tập quán sử dụng; nó hàm chứa những giá trị tinh thần và ý nghĩa tâm linh đặc biệt, vừa thiêng liêng cao quý, vừa đậm đà sâu lắng trong mỗi thành viên cũng như toàn thể cộng đồng.

Nhà Rông là một thiết chế văn hóa tiêu biểu, độc đáo có ý nghĩa quan trọng trong văn hóa tinh thần, trong đời sống xã hội và trong tín ngưỡng, tâm linh của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. Nó là một di sản quí cho hôm nay và mai sau. Giữ được nhà Rông, giữ được "trái tim" của làng, nơi cất giữ những huyền thoại trong sử thi cổ, cũng là nơi nhen nhóm lửa sáng tạo những "huyền thoại mới", đồng bào các dân tộc Tây Nguyên sẽ giữ được cho mình một đời sống tinh thần phong phú và đa dạng, bắt rễ sâu vào truyền thống nhưng cũng vươn tới những giá trị mới phù hợp với xu thế phát triển đi lên của xã hội.
Share on Google Plus

About Con Gái Tây Ninh

This is a short description in the author block about the author. You edit it by entering text in the "Biographical Info" field in the user admin panel.
    Blogger Comment
    Facebook Comment

0 nhận xét:

Đăng nhận xét